Diễn biến chiến tranh Chiến_tranh_Ba_Mươi_Năm

Cuộc nổi loạn của người Bohemia (1618-1625)

Nguyên nhân trực tiếp của cuộc nổi loạn

Do không có con nối dõi, Hoàng đế La Mã thần thánh Matthias đã cố gắng sắp xếp một cuộc chuyển giao quyền lực trong trật tự khi ông vẫn còn sống bằng cách để người thừa kế của ông (một người Công giáo cực đoan, Ferdinand xứ Styria, sau này là Ferdinand II (Đế quốc La Mã thần thánh) được bầu lên ngôi vua ở hai vùng khác nhau thuộc Đế chế, Bohemia và Hungary. Một số lãnh đạo của phe Tin lành ở Bohemia lo sợ rằng nếu Ferdinand lên ngôi, quyền được theo đạo Tin lành của họ sẽ không còn được bảo vệ như trong bức thư cam kết của Hoàng đế Rudolf II (Đế quốc La Mã thần thánh), tiên vương đồng thời cũng là anh trai của Matthias. Phe Tin lành ở Bohemia muốn chọn tuyển hầu Friedrich V của Pfalz (người kế vị của Friedrich IV của Pfalz, người thành lập Liên đoàn đoàn kết Phúc âm), làm người cai trị họ hơn. Tuy nhiên, cũng có những người Tin lành khác ủng hộ việc trao vị trí vua xứ Bohemia cho người Công giáo. Năm 1617, Ferdinand được bầu làm Thái tử xứ Bohemia và sau khi Matthias qua đời, nghiễm nhiên là tự quân của xứ Bohemia. Khi đó, Ferdinand cử hai sứ thần, đều là người Công giáo (Wilhelm Slavata von Chlum und KoschumbergJaroslav Borsita von Martinitz) làm đại diện cho Hoàng đế tại lâu đài hoàng gia Hradcany ở Praha vào tháng 5 năm 1618. Ferdinand muốn hai người này thay mặt ông cai trị xứ Bohemia. Theo những tư liệu dân gian, những người Hussite Bohemia, tức những người theo đạo Tin lành, đã bất ngờ bắt giữ họ, tổ chức một phiên luận tội chóng vánh và ném họ ra khỏi cửa sổ lâu đài, từ độ cao cách mặt đất hơn 20 mét. Thế nhưng họ vẫn sóng sót lành lặn. Những truyền thuyết của người Công giáo kể rằng các thiên thần đã xuất hiện và cứu giúp họ, trong khi truyền thuyết của người Tin lành lại khẳng định họ rơi vào một đống phân bón ruộng ở dưới sân lâu đài nên may mắn sống sót.

Sự kiện này, được biết đến dưới tên gọi Vụ vứt người ra cửa sổ thứ hai ở Praha, đánh dấu khởi đầu cho cuộc nổi dậy của người Bohemia. Không lâu sau đó, xung đột giữa những người Bohemia lan ra toàn cõi Đại Bohemia, Bohemia, Silesia, LusatiaMoravia. Còn cuộc xung đột tôn giáo thì lan khắp châu Âu lục địa, đến Pháp, Thụy Điển và nhiều nước khác.

Nếu cuộc nổi loạn của người Bohemia chỉ là một xung đột địa phương thì chiến tranh đã có thể kết thúc chỉ trong không đầy 30 tháng. Tuy nhiên, cái chết của Hoàng đế Matthias đúng vào lúc tình hình căng thẳng nhất đã khuyến khích những lãnh đạo Tin lành nổi loạn. Sự yếu đuối của Ferdinand (lúc này đã là Hoàng đế La Mã Thần thánh) và chính quyền Bohemia khiến chiến tranh lan nhanh tới biên giới phía tây nước Đức và Ferdinand phải viện đến sự trợ giúp của người cháu họ, Felipe IV của Tây Ban Nha.

Những người Bohemia, đang muốn thành lập một liên minh chống lại Hoàng đế, đã bày tỏ ý định gia nhập Liên đoàn Tin lành, do Friedrich V của Pfalz, một người Calvin và trước đó là một ứng viên cho ngai vàng của xứ Bohemia, đứng đầu. Những người Bohemia nổi loạn gợi ý với Friedrich rằng ông sẽ trở thành vua xứ Bohemia nếu để họ gia nhập Liên đoàn Tin lành và nhận được sự bảo vệ của ông. Tuy nhiên, cùng lúc, những người Bohemia còn đưa ra đề nghị tương tự với công tước xứ Savoie, tuyển hầu xứ Sachsen và tuyển hầu xứ Transilvania. Những người Áo, kiểm soát tất cả các con đường liên lạc từ Praha ra ngoài, đã bắt được những lá thư đó và cho công khai thái độ hai mặt của người Bohemia. Điều này khiến người Bohemia mất đi rất nhiều sự ủng hộ, đặc biệt là ở vùng Sachsen.

Từ trận Sablat đến trận Stadtlohn

Cuộc nổi loạn lúc đầu phát triển theo chiều hướng có lợi cho những người Bohemia. Họ có được sự ủng hộ của vùng Thượng Áo, nơi giai cấp quý tộc chủ yếu là những người Luther hoặc Calvin. Vùng Hạ Áo cũng nổi dậy không lâu sau đó và năm 1619, bá tước Thurn dẫn một đội quân tiến sát Viên. Ở phía đông, tuyển hầu Transilvania, một người theo Tin lành, dẫn đầu một chiến dịch quả cảm tấn công Hungary với sự ủng hộ của hoàng đế của Đế quốc Ottoman. Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh, vốn đang phải đối phó với cuộc chiến tranh Uzkok, phải nhanh chóng huy động quân đội hòng ngăn chặn những người Bohemia và các đồng minh của họ đang ngày càng chiếm ưu thế ở khắp nơi trên đất nước của ông. Bá tước Bucquoy, tư lệnh quân đội của Hoàng đế La Mã Thần thánh, đánh bại một lực lượng lớn của Liên đoàn Tin lành do bá tước Mansfeld chỉ huy trong trận Sablat, ngày 10 tháng 6 năm 1619. Thất bại đó của quân nổi dậy đã cắt đứt liên hệ của bá tước Thurn, đang tiến sâu vào đất Áo, với Praha và ông buộc phải chấm dứt cuộc vây hãm Wien. Thất bại ở Sablat còn khiến những người Tin lành mất một đồng minh quan trọng, xứ Savoie, một địch thủ lâu đời chống lại sự bành trướng của dòng họ Habsburg. Xứ Savoie đã hỗ trợ những người Tin lành một khoản tiền rất lớn và thậm chí đã gửi quân đồn trú đến các pháo đài ở vùng hạ lưu sông Rhine. Tuy nhiên, thất bại của Mansfeld gây lúng túng cho quân đội Savoie khi kế hoạch của họ bị phá sản và họ buộc phải rút khỏi cuộc chiến.

Dù sao, bất chấp trận Sablat, đội quân của bá tước Thurn vẫn là một mối đe dọa nguy hiểm với Hoàng đế La Mã Thần thánh, còn Mansfeld gom góp tàn quân và rút về phía bắc Bohemia. Các vùng Thượng và Hạ Áo đã chính thức ký một thỏa ước liên minh với những người Bohemia vào đầu tháng 8-1619. Ngày 17-8-1619, Ferdinand chính thức không còn là vua xứ Bohemia nữa và những người Bohemia đã chọn tuyển hầu Pfalz Friedrich V thay cho ông ta. Ở Hungary, dù những người Bohemia đã rút lại đề nghị về việc trao ngôi vua cho tuyển hầu Transilvania, xứ này vẫn chiến đấu ngoan cường trong cuộc nổi dậy và họ đã đẩy toàn bộ quân đội của Hoàng đế ra khỏi đất nước vào năm 1620.

Johan Tzerclaes, công tước xứ Tilly, tư lệnh quân đội của xứ Bayern và Đế quốc La Mã Thần thánh

Tây Ban Nha gửi quân đội từ Brussel dưới quyền chỉ huy của Ambrosia SpinolaNelson Antonio Fernandez III, một viên tướng quyết đoán, sang giúp Hoàng đế. Ngoài ra, đại sứ Tây Ban Nha tại Wien, Don Inigo Velez de Onate, thuyết phục xứ Sachsen theo đạo Tin lành chống lại quân nổi dậy để đổi lấy quyền kiểm soát Lusatia. Những người Sachsen đã nghe theo và quân đội Tây Ban Nha ở phía tây đã ngăn được Liên đoàn Tin lành tiếp viện cho bá tước Thurn. Onate còn sắp xếp để tước vị tuyển hầu Pfalz được chuyển lại cho công tước xứ Bayern hòng đổi lấy sự ủng hộ của xứ Bayern và Liên đoàn Công giáo. Dưới sự chỉ huy của tướng Tilly, quân đội của Liên đoàn Công giáo (có một sĩ quan nổi tiếng là nhà khoa học người Pháp Rene Descartes) bình định vùng Thượng Áo, trong khi quân đội của Hoàng đế tấn công Hạ Áo. Hai cánh quân gặp nhau và cùng tiến về phía bắc vào xứ Bohemia. Ferdinand II đã đánh bại Friedrich V trong trận Bila Hora, gần Praha, một trận đánh có tính chất quyết định, ngày 8 tháng 11 năm 1620. Sau thất bại đó, xứ Bohemia phải hoàn toàn theo Công giáo và bị dòng họ Habsburg cai trị thêm gần 300 năm nữa.

Thất bại còn dẫn đến việc giải tán Liên đoàn đoàn kết Phúc âm và Frederick V mất toàn bộ các lãnh địa của ông. Xứ Pfalz bị chia nhỏ cho các quý tộc Công giáo. Tước hiệu tuyển hầu xứ Pfalz được chuyển lại cho một người họ hàng xa của Friedrich V theo Công giáo, công tước Maximilian của Bayern. Friedrich mất hết đất đai và phải lưu vong ở nước ngoài nhưng vẫn không ngừng vận động cho lý tưởng của ông ở Hà Lan, Đan Mạch và Thụy Điển.

Sau khi cuộc nổi loạn thất bại, việc tịch thu của cải và đàn áp những người Bohemia theo đạo Tin lành diễn ra khắp nơi, hòng bảo đảm rằng xứ Bohemia sẽ trở về hẳn với Công giáo sau hơn hai thế kỷ tồn tại của những tôn giáo khác biệt. Tây Ban Nha, vì muốn làm chủ vùng chiến lược ngay cạnh mạn sườn của Hà Lan để chuẩn bị cho việc tiếp tục cuộc chiến tranh 80 năm, chiếm giữ những lãnh địa của Friedrich, vùng Pfalz lưu vực sông Rhine. Giai đoạn thứ nhất của cuộc chiến ở miền đông nước Đức kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 1621, khi hoàng thân xứ Transilvania và Hoàng đế ký Hòa ước Nikolsburg, trao cho Transilvania một số lãnh địa ở Hungary, vốn thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh.

Một số sử gia xem giai đoạn 1621-1625 là một phần riêng biệt của cuộc chiến tranh 30 năm, được gọi là "giai đoạn Pfalz". Sau thất bại toàn diện của quân đội Tin lành tại Bila Hora và cuộc tháo chạy của hoàng thân xứ Transilvania, Đại Bohemia đã được Hoàng đế bình định. Tuy nhiên, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Pfalz. Giai đoạn này của cuộc chiến bao gồm những trận đánh nhỏ và những cuộc vây hãm của quân đội Tây Ban Nha. MannheimHeidelberg thất thủ vào năm 1622, Frankenthal thất thủ năm 1623 và toàn xứ Pfalz rơi vào tay người Tây Ban Nha.

Tàn quân Tin lành, do Mansfeld và Christian nhà Brunswick chỉ huy, rút sang Hà Lan. Dù sự có mặt của đội quân đó đã giúp giải vây cho Bergen op Zoom khỏi lực lượng Công giáo, phía Hà Lan không thể chu cấp nổi cho một đội quân lớn như vậy nên họ chuyển sang khu vực East Friesland gần đó. Mansfeld ở lại Hà Lan, còn Christian dẫn quân rong ruổi để giúp những đội quân Tin lành khác trong Vòng cung Hạ Sachsen và lôi kéo sự chú ý của Tilly. Nhận được tin Mansfeld không thể hỗ trợ, quân đội của Christian quyết định rút hẳn vào sâu trong biên giới Hà Lan. Ngày 6-8-1623, quân đội của Tilly đuổi kịp họ khi chỉ còn cách biên giới Hà Lan 10 dặm. Trận Stadtlohn đã nổ ra. Trong trận này Tilly đánh bại hoàn toàn những người Tin lành, tiêu diệt bốn phần năm quân số vào khoảng 15 nghìn quân của đối thủ. Sau thất bại nặng nề đó, Friedrich V, đang lưu vong ở The Hague, trước sức ép ngày càng lớn từ phía nhạc phụ James I của Anh, phải chấm dứt mọi can dự tới cuộc chiến, đành ngưng các kế hoạch quân sự của ông. Cuộc nổi dậy của người Tin lành đến đây hoàn toàn thất bại.

Christian IV của Đan Mạch. Tổng chỉ huy lực lượng Tin lành giai đoạn 1625-1629

Sự can thiệp của Đan Mạch (1625-1629)

Nền hòa bình ở Đế chế không tồn tại được lâu khi xung đột tiếp diễn với sự can thiệp của Đan Mạch. Đan Mạch bắt đầu can dự vào cuộc chiến khi Christian IV của Đan Mạch, một người Luther, đồng thời là công tước xứ Holstein, giúp đỡ những người lãnh đạo theo Tin lành ở vùng Hạ Sachsen lân cận chống lại quân đội của Hoàng đế La Mã thần thánh. Đan Mạch lo sợ rằng chủ quyền của họ sẽ bị xâm phạm khi những quốc gia Tin lành bị đe dọa bởi các chiến thắng liên tiếp của phe Công giáo. Vua Christian IV còn hưởng lợi nhờ chính sách trước đây của ông ở miền bắc Đức. Một ví dụ điển hình là vào năm 1621, Hamburg đã buộc phải chịu sự cai trị của người Đan Mạch và con trai thứ hai của Christian được cử làm linh mục thành phố Bremen. Vua Christian IV, dựa vào việc mở rộng ảnh hưởng ở miền bắc Đức, đưa vương quốc của ông đến sự ổn định và thịnh vượng mà khi đó ở châu Âu khó có nơi nào sánh bằng. Sự giàu có của Đan Mạch là nhờ vào thuế thu được từ vùng Oresund và tiền bồi thường chiến tranh từ Thụy Điển. Những tính toán của Đan Mạch trong cuộc chiến nhận được sự trợ giúp về tài chính từ phía người Pháp và người Anh. Đích thân Christian IV trở thành tư lệnh của quân đội Tin lành trên toàn Vòng cung Hạ Saxon với lực lượng lính đánh thuê lên đến 2 vạn quân sĩ.

Chỉ huy lực lượng Công giáo Albrecht von Wallenstein

Để đối phó, Hoàng đế Ferdinand II đã viện đến sự trợ giúp về quân sự của Albrecht von Wallenstein, một quý tộc người Bohemia đã trở nên giàu có nhờ tịch thu của cải của những người đồng bào mình sau chiến tranh. Wallenstein cam kết đặt đạo quân ước tính từ 3 vạn đến 10 vạn binh sĩ tinh nhuệ của ông dưới sự chỉ huy Hoàng đế của Ferdinand II để đổi lấy những lãnh địa chiếm được nhờ chiến tranh. Vua Christian IV thiếu thông tin về lực lượng đối phương và bị liên quân của Wallenstein và Tilly đẩy lui nhanh chóng. Các đồng minh của ông cũng không giúp được gì nhiều như đã hứa hẹn: nước Anh quá yếu và bị chia rẽ, nước Pháp đang mắc kẹt trong một cuộc nội chiến, Thụy Điển quá bận rộn với cuộc chiến chống lại Liên bang Ba Lan-Litva, còn các xứ Brandenburg và Sachsen không mấy mặn mà trước những thay đổi với nền hòa bình còn quá mong manh ở miền đông nước Đức. Wallenstein đánh bại Mansfeld trong trận cầu Dessau (1626) và Tilly đánh bại quân Đan Mạch trong trận Lutter (1626). Mansfeld qua đời vài tháng sau đó do bệnh tật tại Dalmatia, mệt mỏi và hoàn toàn kiệt quệ sau thất bại khiến ông mất một nửa đội quân của mình.

Quân đội của Wallenstein tiến xa hơn về phía bắc, đánh chiếm Mecklenburg, Pomerania và cuối cùng là cả Jutland. Tuy nhiên, Wallenstein không thể chiếm được thủ đô của Đan Mạch trên đảo Zealand. Wallenstein thiếu một đội thủy quân đủ mạnh trong khi cả Liên minh HanseaticBa Lan, những bên không tham chiến, đều từ chối không cho phép quân đội của Đế chế xây dựng các hải cảng quân sự ở bờ biển Baltic. Wallenstein bèn quay về vây hãm Stralsund, bên tham chiến duy nhất ở bờ biển Baltic có đủ cơ sở vật chất để xây dựng một đội hải quân mạnh. Tuy nhiên, chi phí để thực hiện kế hoạch đó là quá cao so với việc chiếm được phần còn lại của Đan Mạch, nên Wallenstein quyết định đi tới thỏa thuận với địch thủ.

Những cuộc thương lượng kết thúc với Hiệp ước Lubeck vào năm 1629, tuyên bố rằng vua Christian IV vẫn được quyền cai trị Đan Mạch nếu ông từ bỏ sự ủng hộ với các thành bang theo đạo Tin lành ở Đức. Trong hai năm tiếp theo sau đó, ngày càng nhiều vùng đất rơi vào tay các lực lượng Công giáo.

Đến đây, Liên đoàn Công giáo thuyết phục được Ferdinand II lấy lại những lãnh địa của người Luther mà trước Hòa ước Ausburg thuộc quyền sở hữu của các nhà thờ Công giáo. Được liệt kê chi tiết trong một chỉ dụ đặc biệt của Hoàng đế vào năm 1629, những lãnh địa này bao gồm hai tổng giáo phận, 16 giáo phận và hàng trăm nhà thờ. Cũng trong năm đó, Gabriel Bethlen, một trong những lãnh đạo quân sự có ảnh hưởng lớn của phe Tin lành, qua đời. Chỉ còn lại một mình cảng Stralsund tiếp tục cuộc chiến chống lại Wallenstein và Hoàng đế.

Sự can thiệp của Thụy Điển (1630-1635)

Gustav II Adolf trong trận Breitenfeld (1631)Mẫu phục chế một nhóm bộ binh trong chiến tranh Ba Mươi Năm được trưng bày tại Viện bảo tàng chiến tranh Thụy ĐiểnStockholmChiến thắng của Gustav II Adolf trong trận Breitenfeld (1631)

Một số triều thần của hoàng đế Ferdinand II tỏ ý nghi ngờ Wallenstein. Họ cho rằng ông ta đang tìm cách củng cố liên minh với các hoàng thân ở Đức và gây áp lực lên Hoàng đế. Ferdinand II cách chức Wallenstein vào năm 1630. Nhưng sau đó đã phải gọi lại ông khi quân đội Thụy Điển, do vua Gustaf II Adolf chỉ huy, tấn công Đế chế.

Gustav Adolf, giống như Christian IV, cũng lo ngại về sức mạnh ngày cang gia tăng của Hoàng đế La Mã thần thánh, nên quyết định hỗ trợ những người Luther ở Đức, đánh chặn những người Công giáo ngay trên đất của họ đồng thời giành lấy những lợi ích về kinh tế ở các thành bang nước Đức quanh biển Baltic. Giống như Christian IV, Gustav Adolf nhận được sự hỗ trợ tài chính từ Hồng y Richelieu, quan Thượng thư đầu triều của vua Pháp là Louis XIII, và người Hà Lan. Vào ngày 3 tháng 4 năm 1630, vua Gustav II Adolf và các chiến binh tinh nhuệ tấn công và chiếm được thành phố Frankfurt-an-der-Oder. Quân đội Thụy Điển tàn sát quân cố thủ tại thành phố này.[1] Từ 1630 đến 1634, quân đội Thụy Điển đã đẩy lùi các lực lượng Công giáo và giành lại rất nhiều phần đất của người Tin lành bị chiếm đóng trước đó.

Sau khi cách chức Wallenstein vào năm 1630, Ferdinand II phải phụ thuộc vào Liên đoàn Công giáo. Pháp và xứ Bayern ký một thỏa thuận bí mật không tấn công lẫn nhau: Hiệp ước Fontainebleau (1631), nhưng hiệp ước này không còn nhiều giá trị khi Thụy Điển, vốn được sự bảo trợ của Pháp, tấn công xứ Bayern. Tại trận Breitenfeld (1631), lực lượng do Gustav II Adolf chỉ huy đánh bại Liên đoàn Công giáo do tướng Tilly chỉ huy. Một năm sau, họ lại giáp mặt trong một chiến thắng nữa dành cho những người Tin lành, và Tilly tử trận. Thế thượng phong giờ chuyển sang tay những người Tin lành do Thụy Điển đứng đầu. Năm 1630, Thụy Điển đã phải chi hơn 2.368.000 daler (đơn vị tiền tệ của Thụy Điển vào thời kỳ đó) để nuôi sống và trang bị cho một đội quân 42 nghìn người. Năm 1632, họ chỉ còn phải chi ra một phần năm số đó cho một lực lượng đông hơn gấp ba lần (ước tính vào khoảng 149 nghìn người) với sự trợ giúp về tài chính từ Pháp và việc bắt lính những tù nhân (chủ yếu là ở Breitenfeld).

Sau khi Tilly tử trận, Ferdinand II đành quay qua nhờ sự giúp đỡ của Albrecht von Wallenstein và lực lượng quân đội còn rất mạnh của ông. Wallenstein tiến về phía nam, đe dọa đường tiếp tế của "Hùng sư phương Bắc" Gustav II Adolf. Gustav II Adolf hiểu rằng Wallenstein đang chờ đợi quân Thụy Điển tấn công và đã được chuẩn bị sẵn sàng, nhưng ông không còn lựa chọn nào khác. Wallenstein và Gustav II Adolf cuối cùng cũng chạm trán trong trận Lutzen (1632). Quân Thụy Điển nắm được ưu thế, nhưng Gustav II Adolf tử trận. Năm 1634, lực lượng Tin lành, vốn đã mất vị minh chủ, bị đánh bại trong trận Nordlingen lần thứ nhất.

Đến đây, hoàng đế Ferdinand II lại nghi ngờ Wallenstein bởi bắt đầu từ năm 1633, Wallenstein tìm cách dàn xếp những khác biệt giữa hai phe Công giáo và Tin Lành. Ferdinand II sợ rằng Wallenstein sẽ phản bội mình nên đã sắp xếp một cuộc bắt giữ Wallenstein rồi sau đó tước hết binh quyền. Một trong những người lính của Wallenstein, đội trưởng Devereux, ám sát ông khi ông đang cố gắng tìm cách liên hệ với những người Thụy Điển ở quảng trường Eger ngày 25 tháng 2 năm 1634.

Sau sự kiện đó, hai phía gặp nhau để thương lượng về hòa bình, dẫn đến Hòa ước Praha (1635), bao gồm những điều khoản chính yếu sau:

  • Hoãn việc thực thi chỉ dụ đặc biệt về thu hồi các giáo phận Tin lành của Hoàng đế lại 40 năm và cho phép những người Tin lành giữ lại những giáo phận mà họ đã sở hữu trong năm 1627. Điều này sẽ bảo vệ những nhà cai trị Luther ở phía đông bắc nước Đức, nhưng chưa bảo vệ được những người ở miền nam và miền tây (những người mà đất đai đã bị quân đội của Hoàng đế hoặc của Liên đoàn Công giáo tước đoạt vào trước năm 1627).
  • Hợp nhất quân đội của Hoàng đế và của các thành bang nước Đức thành một quân đội duy nhất dưới sự chỉ huy của Hoàng đế La Mã Thần thánh (mặc dù trên thực tế Johann Georg xứ SachsenMaximillian xứ Bayern vẫn có quân đội riêng, độc lập với Hoàng đế).
  • Cấm các tuyển hầu ở Đức liên minh với nhau và với các lực lượng nước ngoài.
  • Ân xá cho những tuyển hầu đã cầm quân chống lại Hoàng đế sau khi người Thụy Điển tham chiến vào năm 1630.

Tuy nhiên, hòa ước này đã không làm hài lòng một bên vắng mặt, người Pháp vì nhà Habsburg còn trở nên hùng mạnh hơn trước. Vậy là người Pháp trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến, bắt đầu cho giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Ba Mươi Năm.

Sự can thiệp của Pháp (1635-1648)

Trận Lens, 1648

Nước Pháp, mặc dù là "Trưởng nữ của Giáo hội Công giáo"[2], cũng lại là kình địch của Đế quốc La Mã thần thánh và Tây Ban Nha, bước vào cuộc chiến trong tư cách đứng về phía phe Tin lành. Quan Thượng thư đầu triều Pháp là Hồng y Richelieu cảm thấy quân nhà Habsburg vẫn quá mạnh, chiếm giữ nhiều lãnh địa ở ngay biên giới phía đông nước Pháp, bao gồm nhiều phần của Hà Lan.

Trước đó, trong một thời gian dài, Pháp đã liên minh với Hà Lan, rồi sau đó là Đan Mạch và Thụy Điển, để bảo trợ cho cuộc chiến của người Tin lành chống lại Đế quốc La Mã thần thánh. Hòa ước Praha, được dàn xếp dựa do sự ép buộc của Ferdinand II, khiến người Pháp và phe Tin lành không hài lòng. Thụy Điển muốn được nhiều đất đai hơn nữa để trang trải cho phí tổn mà họ phải gánh chịu trong suốt cuộc chiến. Tháng 4-1635, Pháp và Thụy Điển ký một hiệp ước liên minh, hiệp ước Compiegne. Cho tới thời điểm đó của cuộc chiến, nước Pháp vẫn chưa bị tổn thất gì và chỉ tham dự một cách hạn chế bằng cách bỏ tiền trang trải chiến phí, thay vì trực tiếp chiến đấu.

Vào những tháng đầu của năm 1635, Pháp bắt đầu tỏ ra tích cực hơn trong các hoạt động quân sự. Tháng 2-1635, Richelieu đã gửi cho Hà Lan 2 vạn quân tiếp viện. Tuy nhiên, Pháp không thể cứ đứng ngoài cuộc chiến. Tây Ban Nha tấn công Trier, một xứ bảo hộ của Pháp từ 1631, vào đầu năm 1635 và tháng 5-1635, Pháp tuyên chiến với Tây Ban Nha. Vào lúc đầu, triển vọng quân sự của Pháp là không tốt. Quân đội Pháp không có nhiều kinh nghiệm chiến đấu so với những địch thủ đã trải qua cuộc chiến được gần 20 năm. Họ bèn tìm kiếm những liên minh với các thành bang Tin lành, Savoie, Parma, Màntova và những người Tin lành ở Thụy Sĩ.

Dù là một người Công giáo có thế lực lớn, Hồng y Richelieu quyết định liên minh với những người Tin lành

Năm 1636, một cuộc tổng tấn công của phe Đế chế nhắm vào Pháp được phát động. Hai đạo quân của Đế quốc đánh vào nước Pháp, một theo hướng dãy Picardy do Hồng y Ferdinand nước Áo chỉ huy và một theo đường Vosges, do Gallas chỉ huy, trong khi vua Felipe IV của Tây Ban Nha đích thân chỉ huy một đạo quân dự định tấn công miền nam Pháp. Đạo quân của Hồng y Ferdinand giành những thắng lợi liên tiếp và đã có lúc uy hiếp Paris. Tuy nhiên, quân Pháp chống trả quyết liệt và dưới sự kêu gọi của Louis XIII và Hồng y Richelieu, Paris đã không thất thủ, quân Pháp sau đó dần đẩy lui được đạo quân của Hồng y Ferdinand. Đạo quân của Gallas cũng bị công tước Bernard xứ Weimar chặn đứng, còn cuộc tấn công của Felipe IV không thể thực hiện được. Chiến thắng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với nước Pháp trong cuộc chiến.

Tháng 2 năm 1637, Hoàng đế La Mã thần thánh Ferdinand II băng hà, con trai ông, Ferdinand III (Đế quốc La Mã thần thánh), kế vị cha. Ferdinand III ngay lập tức đứng trước những thử thách hết sức khắc nghiệt. Trước đó, tháng 10-1636, quân Thụy Điển đánh bại quân của Đế chế trong một trận đánh lớn tại Wittstock, Brandenburg, qua đó giành quyền kiểm soát phần lớn miền bắc Đức. Gallas đã phải bỏ dở chiến dịch của ông ở Pháp để quay về đối phó. Trận Torgau diễn ra sau đó, với thắng lợi của Đế chế, buộc quân Thụy Điển phải lùi về Pomerania, nhưng vẫn còn đủ mạnh để uy hiếp miền bắc Đế chế.

Trong khi đó, Pháp bắt đầu tổ chức phản công và giành được những chiến thắng đáng kể ở miền bắc Ý khi công tước Bernard xứ Weimar đánh bại quân Đế chế ở Rheindelfen rồi chiếm được AlsaceBreisach. Sau khi Bernard qua đời năm 1639, quân đội của ông được đặt hoàn toàn dưới sự kiểm soát của nước Pháp. Lúc này, quân đội Pháp cũng bắt đầu có những chỉ huy tài năng: TurenneLouis II de Bourbon, hoàng thân xứ Conde.

Trên biển, liên quân Tin lành cũng giành được những thắng lợi quyết định. Tháng 10-1639, hải quân Hà Lan đánh bại một hạm đội hải quân của Tây Ban Nha trong trận Downs. Tháng 1-1640, một hạm đội hải quân của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lại bị hải quân Hà Lan đánh bại trong trận Pernambuco. Kể từ sau đó, quân đội của Đế chế không còn nhận được sự tiếp viện của Tây Ban Nha từ đường biển nữa. Tháng 11-1641, Hồng y Ferdinand qua đời, thêm một tổn thất nữa cho phe Đế chế.

Về phần Tây Ban Nha, họ gặp phải nhiều vấn đề quốc nội hết sức phức tạp. Trong hai năm 1640-1641, Bồ Đào Nha, trước giờ vẫn là một xứ bảo hộ của Tây Ban Nha, nổi dậy đòi quyền độc lập. Xứ Catalan cũng nổi loạn, tham gia một hiệp ước chống Tây Ban Nha với nước Pháp, thành lập liên minh Pháp – Catalan và lật đổ nền cai trị của Tây Ban Nha ở Barcelona, thủ phủ xứ Catalan, vào năm 1641. Tây Ban Nha trở nên hết sức hỗn loạn và vua Felipe IV không còn tâm trí đâu cho cuộc chiến nữa. Tuy nhiên, Pháp đã không tận dụng được cục diện xoay chuyển có lợi cho họ đó bởi cái chết của Hồng y Richelieu vào tháng 12-1642. Louis XIII cũng băng hà chỉ sau đó không đầy một năm, tháng 5-1643. Tự quân của nước Pháp, Louis XIV của Pháp, chỉ mới bốn tuổi và những người cầm quyền nhiếp chính, Hoàng hậu Anne, một người Áo và Thủ tướng Mazarin, một người Ý, đều không muốn tiếp tục cuộc chiến. Cùng năm đó, Tướng quan xứ Bayern là Franz von Mercy đánh tan tác quân Pháp.[3]

Vào năm 1645, Tướng quan Pháp Turenne bị Tướng quan Franz von Mercy tấn công bất ngờ trong trận Mergentheim, và Turenne thất bại nặng nề.[4] Tuy nhiên, Tổng chỉ huy Quân đội Thụy Điển, Lennart Torstensson đánh bại quân của Đế chế trong trận Jankau gần Praha và Louis II de Bourbon - nhận lệnh Hồng y Mazarin đến cứu vãn Quân đội Pháp sau chiến bại tại Mergentheim - đánh tan tác Quân đội Bayern trong trận Nordlingen lần thứ hai. Vị tướng tài năng cuối cùng của phe Công giáo, Franz von Mercy, đã hy sĩnh trong trận đánh này.

Vào ngày 14 tháng 3 năm 1647, Bayern, Köln, PhápThụy Điểnthỏa ước ngừng bắn Ulm. Sau đó, quân Pháp chiếm đóng pháo đài Philipsburg của Đế quốc La Mã Thần thánh.[3] Năm 1648, liên quân Pháp Thụy Điển do Thống chế Carl Gustaf Wrangel cùng Tướng quan Turenne và Louis II de Bourbon chỉ huy đánh bại Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh trong những trận đánh lớn cuối cùng của cuộc chiến, trận Zurmarshausentrận Lens. Sau hai thất bại đó, vương triều Habsburg rộng lớn giờ chỉ còn làm chủ mỗi vùng lãnh địa nước Áo mà thôi. Vào năm 1648, quân Thụy Điển thực hiện cuộc tiến công cuối cùng vào thành Praha.[2]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Ba_Mươi_Năm http://books.google.com/?id=ZDxvj7NG_1sC http://www.pipeline.com/~cwa/TYWHome.htm http://www.pipeline.com/~cwa/Westphalia_Phase.htm#... http://www.questia.com/PM.qst?a=o&d=100053841 http://www.westfaelischer-frieden.de http://www.badley.info/history/Thirty-Years-War-En... http://www.badley.info/history/Thirty-Years-War-Fr... http://www.badley.info/history/Thirty-Years-War-Ge... http://www.badley.info/history/Thirty-Years-War-Ho... http://www.badley.info/history/Thirty-Years-War-Sw...